Thư pháp Á Đông (chữ Hán: 東亞書法, Đông Á thư pháp) là nghệ thuật viết chữ đẹp có nguồn gốc từ Trung Quốc. Người ta dùng bút lông, chấm mực tàu, viết chữ Hán trên các loại giấy tốt hay vải lụa, theo những phong cách khác nhau. Trong nghệ thuật thư pháp Á Đông có 5 phong cách viết là Chân (hay còn gọi là Khải), Triện, Lệ, Hành và Thảo với những quy luật đặc trưng riêng về đường nét, cách thức thể hiện.
Thư pháp là môn nghệ thuật đặc trưng của người Á Đông
Người Trung Quốc cho rằng Lý Tư, thừa tướng của triều đình nhà Tần, là người khởi đầu cho nghệ thuật thư pháp vì ông là người được giao việc thực hiện cải cách và thống nhất văn tự sau khi Tần Thủy Hoàng thôn tính các nước nhỏ khác đưa Trung Quốc trở thành một quốc gia thống nhấ. Trải qua các triều đại sau đó, sử sách đều có ghi nhận về sự xuất hiện của những thư pháp gia (người viết chữ đẹp) nổi tiếng, như Vương Hy Chi (đời Đông Tấn) hay Tề Bạch Thạch (đời nhà Thanh).
Tiêu chuẩn để đánh giá một tác phẩm thư pháp thường bao gồm nhiều yếu tố rất khắt khe như điểm hoạch (đường nét), kết thể (bố cục), thần vận (cái hồn của tác phẩm)… Cùng với sự xâm lược và đồng hoá của văn hoá các triều đại Trung Quốc trong một khoảng thời gian dài, môn nghệ thuật này cũng trở nên phổ biến tại Hàn Quốc, Nhật Bản, Việt Nam.
Thư pháp Trung Hoa
Ðối với người phương Ðông, nói đến môn Thư pháp, người ta thường nghĩ đến cách viết chữ Hán với phong cách đặc biệt… Với cây bút lông, mực và giấy người Trung Hoa đã đưa nghệ thuật viết chữ vươn lên đỉnh cao với lý thuyết phong phú, mang tính triết học, thiền học
.
Nghệ thuật thư pháp
Thư pháp Trung Hoa là khởi thủy của thư pháp Á Đông
Đây là dòng thư pháp được phát triển sớm nhất, mạnh nhất và có ảnh hưởng sâu sắc đến các dòng thư pháp của các ngôn ngữ khác trong vùng Đông Á. Thư pháp chữ Hán không chỉ là một môn của nghệ thuật của riêng Trung Quốc, Đài Loan mà cả vòng văn hóa chữ Hán…. Nhiều nhà thư pháp tại các nước nằm trong vùng ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa như Nhật Bản, Hàn Quốc, Việt Nam cũng sáng tác các tác phẩm thư pháp bằng chữ Hán.
Thư pháp Việt Nam
Thư pháp Việt Nam bao gồm hai dòng: Thư pháp Hán-Nôm và Thư pháp Quốc ngữ (hay thư pháp chữ Việt).
Xưa nay, trong lịch sử việt Nam không hoàn toàn có nhắc đến một cách chính danh một bộ môn nghệ thuật nào mang tên Thư Pháp và danh xưng chính thức như Thư pháp gia hay còn gọi là Nhà Thư pháp cho những người hoạt động trong lĩnh vực này, chỉ có khái niệm viết chữ đẹp và người viết chữ đẹp [cần dẫn nguồn].
Việt Nam chịu ảnh hưởng của văn hóa Hán, dùng văn tự Hán nhưng lại không chính danh được cho bộ môn này. Các nhà nghiên cứu chưa tìm thấy các tư liệu lịch sử của suốt quá trình bị phương Bắc đô hộ và cả thời kỳ độc lập tự chủ nhắc đến bộ môn này. Một vài từ liệu rất ít ỏi như trong Kiến Văn Tiểu Lục của Lê Quý Đôn hay Vũ Trung Tùy bút của Phạm Đình Hổ cũng chỉ nhắc đến một cách sơ lược lối viết chữ của người phương Bắc mà thôi, ngoài ra không đề cập gì hơn
.
Nghệ thuật thư pháp
Cùng với sự ảnh hưởng của văn hóa Trung Quốc, chữ Hán dần trở thành một môn nghệ thuật của giới học giả Việt Nam
Thư pháp chữ Việt, hay thư pháp Việt ngữ được bắt đầu từ khoảng 30 năm gần đây. Bắt đầu là nhà thơ Đông Hồ viết thư pháp bằng bút sắt. Sau này có nhà thư pháp Nhất Linh viết một số bức in trên tạp chí nhưng chưa thành phong trào. Mãi đến sau này, nhà sư Minh Đức Triều Tâm Ảnh khơi mào cho phong trào viết thư pháp Quốc ngữ bằng bút lông. Câu lạc bộ Thư pháp ban đầu chỉ có nhà thư pháp Nguyễn Đình và nhà sư Minh Đức Triều Tâm Ảnh chơi thư pháp Quốc ngữ. Đến nay, thư pháp chữ Việt đã được nhiều người quan tâm. Một trong những tác phẩm thư pháp nổi bật nhất là cuốn thư pháp Truyện Kiều của Nguyễn Đình, tác phẩm này được thực hiện nhân dịp Festival Huế 2002.
Chữ Chân Phương (còn gọi là Chân Tự)
Chữ Cách Điệu (còn gọi là Biến Tự)
Chữ Cá Biệt (còn gọi là Cuồng Thảo)
Chữ Mô Phỏng
Chữ Mộc Bản
Thư pháp Nhật Bản
Thư pháp tại Nhật Bản gọi là thư đạo(書道). Theo các chuyên gia thư pháp Nhật Bản, chữ Hán được truyền từ Trung Quốc sang Nhật Bản từ khoảng 2000 năm trước, được sử dụng phổ biến ở Nhật Bản từ khoảng thế kỷ 5. Sau đó, dựa trên cơ sở chữ Hán, người Nhật đã sáng tạo ra kiểu chữ của mình là chữ Hiragana và Katakana (kiểu chữ biểu thanh). Thư pháp Nhật Bản được hình thành từ hai kiểu chữ chính là kiểu chữ Hán từ Trung Quốc đến và kiểu chữ Hiragana, Katakana. Hiện nay, ở Nhật Bản có từ 8 đến 10 triệu người tham gia viết thư pháp, và thư pháp được coi là một trong những môn nghệ thuật đặc sắc của Nhật Bản.